Diệt mối giá rẻ

Đặc tính sinh vật học của mối

Đặc tính sinh vật học của mối là sinh sống thành quần thể, chia ra nhiều đẳng cấp nhưng có 2 loại hình lớn là:
- Mối sinh sản: Mối vua, mối chúa
- Mối không sinh sản: Mối lính (mối bảo vệ)                               
                                Mối thợ (mối lao động)
Đặc tính sinh vật học của mối
Đặc tính sinh vật học của mối
1. Mối vua và mối chúa nguyên thủy:
Phần lớn trong một quần thể mối chỉ có một đôi mối vua và mối chúa nguyên thủy, nhưng cũng có trường hợp có 2 hoặc 3 đôi mối vua và chúa ví dụ giống mối đất Odontotermes và Macrotermes.
Ngoài ra còn loại mối vua và mối chúa bổ sung thường chỉ bổ sung khi mối vua và chúa nguyên thủy chết.
Một con mối cái (mối chúa) không thể tạo nên một đàn mối mà phụ thuộc vào 2 con: mối chúa và mối vua ( con đực) giao phối thành công. Cặp mối vua, chúa tiếp tục sống cùng nhau đến trọng đời, chúng giao phối theo giai đoạn những quả trứng đầu tiên được đẻ ra sau khi giao phối vài tuần phụ thuộc vào dinh dưỡng có sẵn của con cái (tức mối chúa sau này). Khi những quả trứng đầu tiên được nở ra thành mối con được bố mẹ quan tâm chăn sóc. Sau 2 lần rụng long, mối con ( có tài liệu gọi là mối non) sẽ trở thành mối thợ để kiếm mồi cung cấp cho bố mẹ.
Mối con có thể phát triển thành mối thợ, mối lính, mối sinh sản ( mối vua, mối chúa bổ sung và mối cánh bay ra phân đàn) tùy thuộc vào mức độ cần thiết của đàn.
2. Mối lính ( mối bảo vệ)
Mối lính có có con đực và con cái nhưng không sinh sản được. Mối lính có hàm phát triển, có lỗ hạch và thong qua lỗ đó có thể tiết ra một chất dịch độc có tính axit, vì vậy mối lính có chức năng bảo vệ quần thể mối khi có kẻ xâm lược ( các loại sinh vật khác kể cả con người). Mối lính không tham gia xây dựng tổ mối. Do chuyên môn hóa bộ phận hàm để bảo vệ trở thành vũ khí sắc bén nên mối lính không thể tự lấy thức ăn cho mình mà phải nhờ mối thợ mớm thức ăn. Đặc điểm này khi dùng kính lúp cầm tay có thể phân biệt được mối lính với mối thợ của các giống mối.
3. Mối thợ ( mối lao động)
Mối thợ chiếm đông nhất trong quần thể mối, mối thợ cũng có mối đực và mối cái nhưng cơ quan sinh sản không hoàn chỉnh nên không đẻ được trứng.
Mối thợ đảm nhận nhiệm vụ kiếm thức ăn, xây tổ, làm đường mui, mớm thức ăn, chăm sóc mối non, vận chuyển trứng mối…đa số các loài mối chỉ có một loại mối thợ nhưng một số loài có 2 loại là mối thợ to và mối thợ nhỏ, như giống macrdermes.
Xem ngay…

Vòng đời của ruồi

Loài ruồi nhà thường gặp có tên khoa học là Musca domestica, sống rất gần gũi với loài người trên toàn thế giới. Chúng thường được tìm thấy ở những khu dân cư hoặc súc vật sinh sống, nơi có nhiều thực phẩm và chất thải. Ruồi nhà ăn thực phẩm của người và chất thải vì thế chúng có thể mang và phát tán nhiều loại mầm bệnh khác nhau như ỉa chảy, bệnh nhiễm trùng da và mắt.
Vòng đời của ruồi
Vòng đời của ruồi

  • Vòng đời:
Vòng đời của ruồi trải qua 4 giai đọan: trứng, dòi, nhộng và ruồi trưởng thành. Tùy thuộc vào nhiệt độ môi trường mà từ trứng nở thành ruồi trưởng thành thường mất từ 3 – 5 ngày. Ruồi trưởng thành có đời sống khỏang 1-2 tháng, ở điều kiện thích hợp có thể sống đến 3 tháng.

         Vòng đời của ruồi

Ruồi nhà có sức sinh sản khá nhanh và mạnh, ruồi cái có thể đẻ đến 150 trứng trong vòng 5-6 ngày. Nên quần thể ruồi nhà có thể bùng phát số lượng trong vòng vài tuần.


Trứng ruồi thường được đẻ thành khối trên chất hữu cơ như phân bón, rác rưởi. Trứng sau khi đẻ sẽ nở trong vòng vài giờ. Dòi non chui lúc nhúc trong phân và rác rưởi. Dòi ruồi dài và mảnh, màu trắng, không có chân, phát triển rất nhanh, lột xác 3 lần rồi thành nhộng. Giai đọan nhộng thường kéo dài từ 2-10 ngày, đến ngày cuối, ruồi con đẩy mở đỉnh của bao nang nhộng, xé bao nang và chui ra ngòai. Ngay sau khi nở, ruồi giang cánh để khô và cứng cơ thể. Chỉ vài ngày sau khi nở, ruồi có thể sinh sản.

  • Một số tập tính của ruồi:
Ruồi trưởng thành có màu xám đen, dài 6-9 mm và có 4 sọc đen kéo dài trên tấm lưng của các đốt ngực. Kiểu miệng liếm hút. Cả ruồi đực và cái đều ăn tất cả thức ăn, rác rưởi, chất thải của người và cả phân động vật. Nước là chất thường ngày không thể thiếu của ruồi, ruồi sẽ chết nếu sau 48 giờ không hút nước. Một ngày ruồi cần ăn 2-3 lần.
Ruồi họat động chủ yếu vào ban ngày khi chúng ăn và giao phối, về đêm bình thường ruồi đậu yên. Ban ngày, khi không tìm thức ăn, ruồi thường trú đậu ở sàn nhà, tường, trần nhà, cũng như ngòai bờ rào, hần nhà xí, thùng rác, dây phơi quần áo, thảm cây thấp … Ruồi thường tập trung ở các điểm tìm kiếm thức ăn, nơi giao phối, nơi đẻ trứng và nơi trú đậu. Ban đêm ruồi ưa đậu ở trần nhà và những cấu trúc treo cao khác, nhìn chung gần với nơi kiếm ăn, nơi đẻ và tránh được gió.
  • Ảnh hưởng của ruồi đối với sức khỏe cộng đồng:
Khi ruồi nhiều quá nó sẽ gây rất khó chịu cho con người làm việc và nghỉ ngơi. Ruồi với chất bẩn mang trên thân, chân, vòi … làm bẩn nhà cửa, đồ đạc. Sự có mặt của chúng là dấu hiệu của điều kiện mất vệ sinh.
Ruồi mang mầm bệnh khi chúng kiếm ăn. Mầm bệnh có thể dính bề mặt ngòai cơ thể ruồi và có thể được nuốt vào trong dạ dày với thức ăn. Mầm bệnh được truyền đến người khi ruồi tiếp xúc với người và thức ăn Đa số mầm bệnh do ruồi truyền đều nhiễm trực tiếp qua đường thức ăn, nước uống …
Những bệnh do ruồi truyền như kiết lỵ, ỉa chảy, thương hàn, tả và một số bệnh giun sán, nhiễm trùng mắt và một số bệnh ngoài da như mụn cóc, nấm, phong.
Xem ngay…

Vòng đời của muỗi truyền bệnh

Muỗi là trung gian truyền bệnh quan trọng của nhiều loại bệnh ở vùng nhiệt đới, phổ biến là bệnh sốt rét, giun chỉ bạch huyết và những bệnh do virus như sốt xuất huyết, viêm não Nhật Bản, sốt vàng.
Vòng đời của muỗi truyền bệnh
Vòng đời của muỗi truyền bệnh
Các biện pháp phòng, chống muỗi chú trọng vào một hoặc vài loài muỗi quan trọng nhất có vai trò truyền bệnh. Dựa vào vòng đời sinh trưởng của muỗi, các biện pháp can thiệp thường tác động vào giai đoạn muỗi trưởng thành hay giai đoạn ấu trùng.
Vòng đời của muỗi
Muỗi có bốn giai đoạn phát triển rõ ràng trong vòng đời của chúng bao gồm trứng, bọ gậy, cung quăng và muỗi trưởng thành. Trứng muỗi đẻ nổi trên mặt nước, trứng nở thành bọ gậy nằm ở dưới nước nhưng lấy không khí trên mặt nước qua ống thở, bọ gậy phát triển thành cung quăng cũng nằm dưới nước và lấy không khí trên mặt nước, cung quăng lột xác để thành muỗi trưởng thành không ở dưới nước mà thoát lên trên mặt nước. Muỗi cái thường chỉ giao phối một lần nhưng có thể đẻ trứng suốt đời theo từng đợt. Để thực hiện được việc đẻ trứng, phần lớn muỗi cái cần phải đốt máu người hoặc động vật. Muỗi đực không đốt máu như muỗi cái, chúng chỉ hút các loại nhựa cây để tự nuôi dưỡng. Sau khi đốt no máu, muỗi cái tìm nơi trú đậu kín đáo, an toàn để tiêu máu và phát triển trứng. Ở vùng có khí hậu nhiệt đới, thời gian này cần khoảng từ 2 đến 3 ngày; còn ở vùng có khí hậu ôn hoà thì thời gian này sẽ lâu hơn. Muỗi cái khi đã mang trứng, chúng bay đi tìm các nơi thích hợp để sinh đẻ. Sau đó lại tiếp tục tìm mồi để đốt máu và đẻ một lứa trứng khác. Chu trình này cứ lặp đi lặp lại cho tới khi muỗi chết.
Một số đặc điểm trong vòng đời của các loài muỗi
Tuỳ theo từng loài muỗi, muỗi cái có thể đẻ từ 30 đến 300 trứng mỗi lần. Nhiều loài đẻ trứng trực tiếp trên mặt nước, có thể từng cái trứng một riêng biệt, kết thành chuỗi (như loài Aedes, Anopheles) hoặc kết dính với nhau thành bè (như loài Culex). Ở vùng có khí hậu nhiệt đới, trứng thường nở từ sau 2 đến 3 ngày. Một số loài muỗi như Aedes đẻ trứng ngay cạnh thành mặt nước hoặc nơi bùn ướt, số trứng này chỉ nở khi bị ngập nước. Ở môi trường khô, trứng có thể sống được nhiều tuần.
Sau khi trứng nở thành bọ gậy, bọ gậy không phát triển liên tục mà trải qua 4 giai đoạn tuổi khác nhau. Ở tuổi Ikích thước bọ gậy khoảng 1,5 mm và ở tuổi IV kích thước bọ gậy khoảng từ 8 đến 10 mm. Mặc dù bọ gậy không có chân nhưng có phần đầu phát triển, thân mình phủ nhiều lông và bơi bằng các chuyển động của cơ thể.
Bọ gậy ăn tảo, vi khuẩn và các vi sinh vật ở trong nước. Phần lớn bọ gậy đều có ống thở nằm ở phần đốt cuối của bụng, qua đó không khí được đưa vào cơ thể và cũng qua ống thở, bọ gậy trồi lên mặt nước để thở. Bình thường bọ gậy lặn sâu xuống dưới đáy nước một thời gian để lấy thức ăn hoặc để tránh nguy hiểm. Bọ gậy loài muỗi Anopheles nằm ngang mặt nước để vừa lấy thức ăn vừa để thở nên chỉ có ống thở thô sơ. Bọ gậy Mansonia không cần trồi lên mặt nước để thở vì loài này có thể lấy không khí bằng cách cắm ống thở vào một loại thực vật thuỷ sinh mà nó hầu như nó luôn luôn gắn vào đó.
Nơi khí hậu ấm áp, chu kỳ bọ gậy khoảng 4 đến 7 ngày hoặc dài hơn nếu thiếu thức ăn. Sau đó bọ gậy phát triển chuyển thành cung quăng có hình dấu phẩy. Cung quăng không ăn và hầu như chỉ ở trên mặt nước. Nếu mặt nước bị khuấy động, nó lặn nhanh xuống đáy nước. Khi cung quăng phát triển đến một độ lớn nhất dịnh, muỗi trưởng thành sẽ nở ra bằng cách chui qua vỏ cung quăng đã được tách ra ở một đầu. Ở vùng khí hậu nhiệt đới, giai đoạn cung quăng kéo dài từ 1 đến 3 ngày. Toàn bộ thời gian từ trứng đến muỗi trưởng thành ở điều kiện khí hậu tốt nhất khoảng từ 7 đến 13 ngày.
Vòng đời của muỗi và biện pháp can thiệp
Căn cứ vào vòng đời sinh trưởng của muỗi, các biện pháp can thiệp thường tác động vào giai đoạn bọ gậy muỗi và giai đoạn muỗi trưởng thành. Các biện pháp can thiệp không tác động vào giai đoạn trứng và giai đoạn cung quăng vì thời gian để trứng nở thành bọ gậy quá ngắn (thường từ 2 đến 3 ngày), thời gian để cung quăng lột xác thành muỗi trưởng thành cũng không dài (thường từ 1 đến 3 ngày).Do đó bọ gậy muỗi và muỗi trưởng thành là hai đối tượng thích hợp được chọn lựa để tác động biện pháp can thiệp nhằm hạ thấp tỷ lệ và mật độ hoạt động của chúng, góp phần làm hạn chế sự phát triển để thực hiện vai trò trung gian truyền bệnh. Để diệt bọ gậy muỗi và muỗi trưởng thành, có nhiều biện pháp can thiệp được ứng dụng. Tuỳ theo tình hình, điều kiện, tập quán sinh hoạt … khác nhau của cộng đồng người dân mà lựa chọn biện pháp phù hợp để mang lại hiệu quả cao.
Xem ngay…

Đặc điểm của loài kiến

Kiến liên lạc với nhau qua hóa chất Pheromone, giống như những loài côn trùng khác, kiến ngửi qua bộ phận râu dài và mỏng rất linh hoạt.Đôi râu cung cấp cho kiến thông tin về môi trường xung quanh. Vì phần lớn thời gian sống của kiến tiếo xúc với đất nên bề mặt đất là nơi thích hợp để chúng để lại dấu vết bừng Pheromone giúp những cá thể khác dễ dàng lần theo. Những loài kiến kiếm ăn theo bầy, khi tìm được nguồn thức ăn những con kiến sẽ liên tục để lại dấu vết trên đường mang thức ăn  về tổ giúp những cá thể khác lần theo đến chỗ có thức ăn. Khi nguôn thức ăn đã hết, dấu vết sẽ không được để lại bởi những con kiến trở về tổ do đó dấu vết sẽ từ từ mất đi. Thói quen này giúp kiến thích nghi với sự thay đổi của môi trường. Khi dấu vết dẫn đến nguồn thức ăn bị làm gián đoạn kiến sẽ tìm lối đi mới đến nguồn thức ăn. Nếu thành công, chúng sẽ để lại dấu vết trên con đường mới này cho những cá thể khác đi theo và mỗi con kiến lại tiếp tục để lại Pheromone trên lối đi này. Vị trí của tổ được kiến xác định theo sự ghi nhớ về địa hình cũng như là vị trí của mặt trời.
Đặc điểm của loài kiến
Đặc điểm của loài kiến


Kiến cũng sử dụng Pheromone cho những mục đích khác. Một con kiến bị thương nặng khi bảo vệ tổ sẽ tiểt ra Pheromone có nồng độ cao, như một tính hiệu báo động, để gửi tính hiệu tấn công dữ dội của kẻ địch cho những con kiến gần đó, nếu với nồng đọ thấp thì chỉ có ý nghĩa gây sự chú ý mà thôi. Ở một số lòai kiến, chúng còn tiết ra Pheromone nhằm mục đích kiến cho kẻ thù tự tấn công lẫn nhau. Pheromone cũng được để lại trong thức ăn trong quá trình kiến trao đổi thức ăn với những cá thể khác để cung cấp thông tin về tình trạng sức khỏe của một cá thể kiến nào đó. Kiến cũng có thể phát hiện một cá thể nào đó thuộc về đẳng cấp nào trong tổ. Khi con kiến Chúa ngưng tiểt ra một loại Pheromone đặc biệt thì kiến thợ sẽ tập trung vào kiến Chúa mới.
Tự vệ
Kiến tấn công các loài khác và bảo vệ tổ bằng cách dùng đôi hàm để cắn và ở nhiều lòai kiến chúng còn sử dụng cách tiêm nọc độc.
Bên cạnh việc tự vệ chống lại mối nguy hiểm bên ngòai, kiến cũng cần bảo vệ tổ chống lại các sinh vật gây bệnh. Một số kiến thợ có nhiệm vụ duy trì tình trạng vệ sinh của tổ kiến, công việc của chúng bao gồm cả việc dọn dẹp các xác kiến chết trong tổ.
Tổ kiến cũng được bảo vệ chống lại các mối đe dọa của tự nhiên như như lũ lụt, bởi cấu trúc phức tạp của lối ra vào hay những khoang đặc biệt để thoát hiểm khi bị ngập nước.
Cấu trúc tổ kiến
Kiến xây dựng những cái tổ phức tạp với nhiều lối đi lại, một số loài khác lạ du cư và không xây tổ cố định. Có lòai lại làm tổ dưới đất hay trên cây. Tổ kiến có thể nằm trên mựt đất với các ụ, gò ở lối vào tổ, bên dưới tảng đá, trong các cấu trúc rỗng... Vật liệu dùng để xây tổ gồm có đất, cây... và kiện thường chon lựa kỹ càng nơi làm tổ.
Kiến và con người
Kiến rất hữu ích trong việc tiêu diệt các côn trùng gây hại và làm thông thoáng đất.
Một số nơi lại dùng kiến khâu vết thương.
Một số dân tộc dùng kiến để làm thức ăn.
Nhưng chúng cũng gây phiền phức cho con người khi xâm nhập vào nhà, sân vườn...
Kiến Carpenter khi làm tổ trong vật dụng bằng gỗ sẽ làm cho đồ gỗ hư hỏng và bị rỗng.
Xem ngay…

Tìm hiểu về loài kiến

Kiến là loài côn trùng xã hội thuộc họ Formicidae có họ hàng với loài ong, thuộc bộ Hymenoptera. Trên thế giới có khoảng 12.000 loài kiến, đa số các loài kiến phân bổ ở vùng nhiệt đới. Chúng được biết là loài côn trùng có tính tổ chức cao trong tập đoàn kiến, có những tổ kiến có đến hàng triệu cá thể. Các tổ kiến thướng chiếm 1 khu vực rộng lớn, tổ kiến giống như một siêu tổ chức vì chúng được vận hành như một hệ thống nhất. Kiến có thể thấy hầu hết mọi nơi trên Trái Đất, những nới không có sự tồn tại của các loài bản địa là Nam Cực, Greenland, Iceland, một số khu vực của Polynesia, quần đảo Hawaii, và một số đảo hẻo lánh hay các đảo không thuận lợi cho sự sống.

Tìm hiểu về loài kiến
Tìm hiểu về loài kiến
Tiến hóa:
Vế sinh hoc giống loài chỉ ra rằng kiến tiến hóa từ Vespoids ở giữa kỹ phấn trắng khoảng 120-170 triệu năm trước đây sau khi các cây hạt kín xuất hiện cách đây khoảng 100 triệu năm, kiến đã phân chia thành nhiều loài và thống trị thế giới sinh vật khoảng 60 triệu năm trước đây. Nhiều hóa thạch từ kỹ phấn trắng là lớp trung gian và ong, đã cung cấp thêm bằng chứng về nguồn gôc của loài ong.
Hình thái học:
Kiến được phân biệt với các côn trùng khác bởi đôi râu gấp khúc và cơ thể chia thành 2 phần rõ rệt nối với nhau bởi phần eo rất hẹp. Phần eo được tảo bởi 1 hay 2 đốt, cơ thể kiến giống như các loài côn trùng khác bao gồm một bộ xương ngoài bao bộc toàn bộ cơ thể và một bộ phần kết nối các cơ, khác với cấu tạo bộ xương bên trong của người và những động vật có xương sống khác. Côn trùng không có phổi, oxy và khí CO2 được trao đổi thông qua các lỗ tí hon ở bộ xương ngoài, còn gọi là lỗ thở.
Cơ thể kiến được chia làm 3 phần : Đầu, ngực và bụng
-         Phần đầu có nhiều cơ quan cảm giác, giống như hầu hết các lòai côn trùng, kiến có đôi mắt kép, gồm nhiều thấu kính nhỏ kết hợp lại với nhau giúp chúng phát hiện sự chuyển động rất tốt. Kiến cũng có 3 mắt đơn ở đỉnh đầu giúp chúng cảm nhận cường độ của ánh sáng. Râu của kiến là cơ quan đặc biệt giúp chúng giao tiếp, phát hiện hóa chất, mùi được tiết ra từ các cá thể kiến khác. Râu cũng là cơ quan cảm nhận giúp chúng nhận biết được sự vật xung quanh. Đầu còn có đôi hàm khỏe, hàm dưới dùng để mang thức ăn, xây tổ và bảo vệ tổ kiến.
-         Phần ngực có 3 đôi chân, ở cuối mỗi chân có hình dạng như các móc giúp kiến có thể leo trèo dễ dàng. Kiến chúa và kiến đực còn có cánh.
-         Phần bụng là nơi có nhiều cơ quan quan trọng, bao gồm cơ quan sinh sản. Hầu hết các loài kiến có ngòi dùng để chích hóa chất làm tê liệt con mồi hay để bảo vệ tổ.
Sự phát triển:
Vòng đời của kiến bắt đầu từ trứng, trứng được thụ tinh sẽ nở thành kiến cái, nếu không sẽ thành kiến đực. Vòng đời của kiến thuộc dạng biến thái hoàn toàn: trứng- ấu trùng- nhộng- con trưởng thành. Giai đoạn ấu trùng phụ thuộc hoàn toàn vào sự giúp đỡ của các cá thể trong tổ, vì chúng không có chân. Sự khác biệt giữa kiến chúa và kiến thợ (đều là kiến cái) và các đẳng cấp kiến thợ khác nhau phụ thuộc vào sự nuôi nấng, chăm sóc giai đoạn ấu trùng. Thức ăn được cung cấp cho ấu trùng qua quá trình trao đổi trao đổi thức ăn, kiến thợ sẽ ợ thức ăn để nuôi ấu trùng. Đây cũng là cách trao đổi thức ăn giữa các con trưởng thành trong tổ kiến. Ấu trùng và nhộng cần được giữ trong nhiệt độ ổn định để đảm bảo cho sự phát triển của chúng. Do đó chúng thường hoán đổi vị trí giữa các khoang trong tổ kiến.
Một con kiến thự trưởng thành thường sử dụng một vài ngày đầu để chăm sóc kiến chúa và con non. Sau đó chúng sẽ chuyển sang làm công việc đào hang hay những công việc khác trong tổ kiến, tiếp đó là đi kiếm ăn và bảo vệ tổ kiến. Sự thay đổi chức năng đôi khi diễn ra một cạc đột ngột và được định nghĩa là đằng cắp kiến thời vụ. Giả thuyết cho sự thay đổi này diễn ra là do tỉ lệ kiến bị chết trong khi đi kiếm ăn tăng cao. Ở một số loài kiến, đẳng cấp kiến được phân theo kích cớ. Kiến thợ được phát triển theo những kích cỡ khác nhau: cỡ nhỏ, cỡ vừa, cỡ lớn. Những con kiến lớn phát triển không đồng đều với cái đầu lớn hơn, mang đôi hàm lớn. Cá thể này đôi khi gọi là kiến lính, vì đôi càng to khỏe khiến cho chúng bảo vệ tổ hiệu quả hơn mặc dù chũng vẫn là kiến thợ và nhiệm vụ của chúng cũng không có khác biệt lớn với các kiến thợ cỡ nhỏ hay vừa.
Hầu hết ở các loài kiến thường gặp được tổ chức theo cách kiến Chúa và kiến sinh sản mới có khả năng giao phối. Trái nược với sự hiểu biết của vài người, một tổ kiến có nhiều kiến Chúa. Kiến đực cùng với những con cái có khả năng sinh sản có cánh chúng không làm bất cứ công việc gì ngòai ăn và giao phối. Đến thời điểm thích hợp, các con đực cùng với kiến cái không phải kiến Chúa (có khả năng sinh sản) bay ra khỏ tổ. Việc giao phối được thực hiện trong khi bay và con đực chết sau đó không lâu. Những con cái khi đáp xuống đất sẽ tìm một nơi thích hợp để thiết lập một tổ kiến mới. Lứa kiến thợ đầu tiên thường yếu và có kích thước nhỏ hơn các lứa sau và chúng bắt đầu ngay công việc mở rộng tổ, tìm kiếm thức ăn và chăm sóc trứng ...Ở một số lòai kiến có nhiều kiến Chúa, tổ kiến mới có thể được hình thành bằng cách 1 con kiến Chúa tách khỏi tổ cũ cùng với một số lớn kiến thợ để tìm vị trí mới thành lập tổ. Tập đoàn kiến có thể tồn tại trong thời gian dài, kiến Chúa có thể sống trên 30 năm, trong khi kiến thợ sống từ 1-3 năm, con đực chỉ sống 1 vài tuấn.


Xem ngay…

Đặc điểm của loài gián

Gián thuộc loài côn trùng phổ biến nhất. Căn cứ vào những hóa thạch để lại thì gián được biết đến là đã có mặt trên trái đất trên 300 triệu năm. Kích thước của chúng rất đa dạng, một số loài có thể dài tới vài cm. Một số nhà sinh vật học coi loài côn trùng này là một trong những nhóm côn trùng phát triển nhất trên hành tinh. Gián là một trong những nhóm côn trùng dễ thích nghi và phát triển nhất. Chúng có thể sống sót dưới những điều kiện môi trường thay đổi qua hàng triệu năm. Có xấp xỉ 3500 loài gián trên khắp thế giới- khoảng 55 loài được tìm thấy ở nước Mỹ.

Những loài phổ biến nhất là gián Đức, gián Mỹ, gián Phương Đông, gián Vành Nâu, gián Xám,... Đối với 5 loài gián này chiếm tới 95% cho việc kiểm soát chúng ở bên trong và xung quanh các tòa nhà. Ở một số vùng thì loài này có thể nghiêm trọng hơn loài kia, và ngược lại. Có loài thì có thể phá hoại cho các khu dân cư, hay có loài thì phá hoại cho các tòa nhà khác. Nhưng nhìn chung chúng thường được tìm thấy ở một số nơi cụ thể, kể cả những nơi không bình thường.
Đặc điểm của loài gián
GIÁN LÀ LOÀI CÔN TRÙNG GÂY BỆNH:
Gián tiết ra chất mùi hôi từ nhiều bộ phận trên cơ thể chúng mà có thể gây ảnh hưởng đến mùi vị của nhiều loại thực phẩm. Khi số lượng gián nhiều thì mùi hôi này có thể tạo ra một mùi đặc trưng trên toàn bộ khu vực nhiễm gián. Các tế bào gây bệnh như là các vi khuẩn cũng được tìm thấy trên cơ thể của gián. Qua thí nghiệm cho thấy  một số bệnh về đường tiêu hoá là do lây lan, nhưng còn những bệnh đường ruột khác thì nguyên nhân chính là do gián gây ra. Các bệnh này bao gồm ngộ độc thức ăn, kiết lị, tiêu chảy và các loại bệnh khác. Các tế bào gây ra những căn bệnh này được mang trên chân và cơ thể của gián và được bám vào thức ăn, các dụng cụ đựng thức ăn khi chúng đi kiếm mồi. Chúng còn mang theo rất nhiều các sinh vật đơn bào và các vi sinh vật bên trong cơ thể chúng, một số loại vi sinh vật này có thể liên quan đến việc reo rắc các mầm bệnh. Phân gián và xác gián cũng chứa một lượng chất dị ứng, mà chất này gây dị ứng da, chảy nước mắt, hắt hơi đối với  rất nhiều ngưới. Tuy nhiên, điều quan trọng ở đây là gián thường không gây ra những bệnh nghiêm trọng.            
ĐẶC TÍNH SINH HỌC CỦA LOÀI GIÁN:
Hầu hết các loài gián có nguồn gốc nhiệt đới và bán nhiệt đới, nhìn chung chúng sống ở các khu vực bên ngoài. Chúng thường hoạt động về đêm, trong khoảng thời gian này chúng đi kiếm thức ăn, nước uống và kết bạn. Ta cũng có thể thấy chúng vào ban ngày, cụ thể là khi số lượng chúng nhiều và khi trong chúng có sự căng thẳng (ví dụ như thiếu thức ăn hay nước uống). Nhiều loại thích môi trường ẩm ướt, nhiều loại lại thích những nơi có nhiệt độ cao. Một số loài gián nhiệt đới sống bằng cách ăn thực vật. Tuy nhiên những loài gián sống trong nhà lại ăn các xác thối rữa và ăn rất nhiều loại thức ăn. Chúng đặc biệt thích ăn các chất tinh bột, bánh kẹo, đường sữa, thịt, nhưng chúng còn ăn rất nhiều chất khác như bia, bơ, các sản phẩm bánh mì, hồ dán sách, keo, tóc, lớp da khô tróc ra, xác động vật và các chất thực vật.
Gián thường chọn những nơi khe kẽ kín  để sống. Những nơi này sẽ cung cấp môi trường ấm, ẩm. Một số loài như gián Mỹ, gián trung đông thường tập trung từng nhóm đông đúc ở những bức tường rỗng được bảo vệ hoặc ở những khu vực  bên ngoài. Mặc dù chúng thường đựơc tìm thấy từng nhóm vào ban ngày khi chúng ấn náu hay nghỉ ngơi, và có thể được tìm thấy từng nhóm đi kiếm ăn vào ban đêm, nhưng chúng không phải thuộc loài côn trùng sống theo bầy đàn như kiến và ong. Nhìn chung gián thường đi kiếm ăn riêng lẻ và mặt khác chúng sống hầu như độc lập, hay không có tính bầy đàn.
Hình dạng của các loài gián nhìn chung là giống nhau. Chúng có thân hình bầu dục và dẹt, điều này tạo cho chúng có khả năng thu nhỏ và chui vô tất cả các loại khe, kẽ. Lớp vỏ bọc nhô ra quá phần đầu. Chúng có phần miệng nhai và phần miệng này được hướng xuống một chút về phía sau cơ thể. Với những cái chân dài và có nhiều gai, chúng có thể chạy rất nhanh trên hầu hết các bề mặt. Với những bàn chân đặc biệt, giúp chúng có khả năng leo trèo trên những cửa kiếng hay trên trần nhà một cách dễ dàng.
Bên cạnh khả năng đi lại bên trong, bên ngoài, và thực tế là có một số loài có khả năng bay rất tốt, gián còn nổi tiếng trong việc di chuyển đến những khu vực mới qua việc đi nhờ. Bởi vì chúng thích ẩn náu trong những khe, kẽ vào ban ngày. Chúng thường đi theo con người hay hàng hóa vận chuyển quanh thành phố hay trong cả nước. Kiểm tra kỹ các đồ đạc, quần áo, hay các hàng hóa khác chuyển vô nhà, hay một số trang thiết bị có thể có gián ẩn náu. Bằng việc kiểm tra kỹ (trong một số trường hợp) các chuyên gia kiểm soát côn trùng và các nhà nghiên cứu đã đưa ra những con số kinh ngạc về gián Đức xâm nhập vào trong các khu vực như bệnh viện, nhà hàng, khách sạn, sở thú qua những đường này mỗi ngày.
Xem ngay…
Next Home ->